Nguyễn Vy 
Khanh
Con người đã có sinh thì có hoại, 
tử, tức không thể thoát được vòng sinh bệnh lão tử của nhà Phật hoặc khẳng quyết 
tam đoạn luận của Aristote. Đã mang thân phận làm người, ai cũng sẽ đi đến tình 
trạng và giai đoạn cuối đó. Dù biện luận hay tìm kiếm con đường thoát khác, cái 
Chết vẫn là một tất yếu, một xác-thực lớn nhất mà từ đó, trên đó, con người có 
thể dựa vào để dựng xây cuộc đời, tức là cuộc sống đem ý nghĩa đến cho cái Chết 
hay nói khác, vì cái Chết mà cuộc sống có ý 
nghĩa.
Cái Chết, thể xác hay tinh thần, 
đều đã là đề tài chính của văn-học nghệ-thuật, là một đề tài đã cũ như trái đất, 
như từ khi có con người. Về hình-thức diễn đạt, con người hoang sơ tiền cổ đã 
ghi lại cái Chết qua các hình-tượng trên các giáp-cốt hoặc tường đá hang động. 
Về hình-thức tống táng, các nền văn-hóa văn minh khác nhau đã có những nghi lễ 
và tin tưởng khác nhau: hỏa táng rồi thủy táng tro ở sông Hằng, những xác ướp 
Ai-Cập, những ngôi mộ thênh thang đông đúc như mộ Tần Thủy-Hoàng đã chết mà vẫn 
còn muốn duy trì cung đình, bộ hạ; hay những ngôi mộ treo, những trả về hư vô 
không để lại dấu vết hiện hữu theo kiểu điểu-táng của người Tây-Tạng, v.v. Người 
Việt coi trọng cái Chết và thần linh. Đứa trẻ chào đời là một biến cố quan 
trọng, nhưng người Chết càng được chú tâm qua các nghi lễ và hình thức. Chôn 
cất, tang lễ với đủ chuẩn bị, rồi 49 ngày, 100 ngày, rồi những ngày giỗ, kị, 
thời gian để tang, lễ Vu lan, v.v. Hồn người quá vãng được tôn kính (bàn thờ, mộ 
chí) và luôn tương đối hiện diện trong cõi sống ! Rồi sinh ra những quan-niệm 
đạo-lý "nghĩa tử là nghĩa tận", "sống ở, thác về", 
v.v.
Văn-chương về cái Chết đã có một 
thời thịnh hành, cổ điển, trước thế kỷ XVI. Trong thế giới văn-chương, cái Chết 
đã được nhân bản hóa và hiện đại hóa từ mấy thế kỷ gần đây và đã có những 
tác-phẩm vừa độc đáo vừa đa dạng, qua nhiều thể loại khác nhau. Nhưng văn-chương 
về cái Chết là một thứ văn không yên ổn, vì con người bị bứng ra khỏi đất, từ 
một thế giới chuyển qua thế giới khác, cõi sống/cõi chết, từ một hiện hữu bình 
thường đổi sang một thể-trạng không thể định nghĩa, từ "to be" sang "not to be" 
("đổi sang từ trần"). Cái Chết nói chung xưa nay vẫn là mối kinh hoàng, là nỗi 
sợ chính của con người : sợ cõi lạ, cõi hư vô không thể biết vì không thể có 
kinh nghiệm khi sống, khi còn ở một trạng thái trước, khác. Tuy từng được xem là 
một cấm-kỵ, nhưng tabou cái Chết không là một đối tượng, mà là một thứ trực 
giác, cảm nghiệm cá nhân. Cái Chết là một biểu tượng, là một chấm dứt; nhưng vì 
không phải là mục-đích tự thân, cái Chết không phải là hết, là kết thúc một cuộc 
đời hay cái gì, mà là một bắt đầu khác, một sự sống khác tùy theo cách cắt nghĩa 
của các tín ngưỡng, tin tưởng (Thiên đàng, Vương quốc trí tuệ, Trí huệ, Cõi sống 
đích thực!). Đi tìm cuộc sống vĩnh cữu hay hạnh phúc đích thực của con người 
mortel như Ulysses !
Từ tàn khốc, "cái Chết" trở thành 
bình thường nhưng thường được tránh đề cập hoặc được giảm thiểu vai trò và sự 
hiện hữu. Xã hội Tây phương và kinh tế hoàn cầu hóa cạnh tranh và tiến mạnh đã 
không có chỗ đứng cho từ cái Chết; trở thành một cấm kỵ, cái Chết đã phải tự 
giết! Những thế kỷ gần đây, từ "cái Chết" ít xuất hiện trong các tựa đề, nhưng 
nội dung thì vẫn là một vấn nạn (sinh-từ, tâm linh) được đề 
cập.
Cái Chết siêu 
hình
Albert Camus qua L'Étranger (Người 
xa lạ) đưa cái Chết đến với người đọc như một phi lý tột cùng, phi lý hoàn toàn, 
không thể cắt nghĩa, lý luận. Phi lý vì cho rằng vụ ám-sát có thể gây ra bởi ánh 
nắng mặt trời, bởi mồ hôi chảy dầm dề làm cay mắt, nhưng phi lý vì không chấp 
nhận sự thù hằn hoặc động cơ cá nhân nào đó là nguyên nhân án mạng. Cây súng sẵn 
trong túi và tia mặt trời làm chói mắt, đã đủ đẻ giết người. Cái Chết ở đây 
không có đoạn kết bình thường vì vụ xử án cũng phi lý và bản án cho thủ phạm 
không phải vì tội giết người mà vì đã không khóc trong đám táng người mẹ! Với 
câu nổi tiếng mở đầu : "Aujourd'hui, maman est morte. Ou peut-être hier, je ne 
sais pas" ("Hôm nay mẹ tôi chết. Hoặc có thể hôm qua, tôi không biết"). Trong 
tiểu-thuyết này, tính phi lý và đảo lộn trật tự bình thường đưa tác-phẩm của 
Camus đến gần tiểu-thuyết đen: cái nhìn lạnh lùng, không 'nhân tính' của 
nhân-vật về những người chung quanh cũng như ngôn-ngữ sử-dụng quá giản đơn (!) 
và những nhân chứng tỉnh táo nhưng bất lực trong truyện. Rồi để mở đầu tiểu luận 
về phi-lý Le Mythe de Sisyphe, Camus loan báo tầm quan trọng triết lý của cái 
Chết qua tự tử: "Il n'y a qu'un problème philosophique vraiment sérieux : c'est 
le suicide" (Chỉ có mỗi một vấn đề triết học thực sự nghiêm chỉnh : việc tự tử) 
! Trong tiểu thuyết Dịch Hạch(La Peste), Camus tuyên bố "chính cái Chết giải 
quyết trật tự thế giới" (1). Như vậy hiện sinh hay Phật giáo đều tin rằng con 
người phải đối đầu với cái Chết để có cuộc hiện-sinh đích 
thực.
Dù con người sinh ra là để chết 
(mortel), nhưng cái Chết không thể là kinh nghiệm của ai cả, vì còn sống thì 
chưa chết, không thể biết cái Chết là gì, nên không có việc khách quan hay chủ 
quan. Điều đó khiến cái Chết là nghịch lý, phi lý. Một nhân-vật của 
Louis-Ferdinand Céline trong Mort à Crédit (1936) đã mỉa mai thách đố nhân-viên 
bệnh viện: "- Tu les crois malades ?... Ca gémit... ça rote... ça titube... ça 
pustule... Tu veux vider ta salle d'attente ? Instantanément ? (...) Ah ! 
s'amuser avec sa mort tout pendant qu'il la fabrique, ca c'est tout l'Homme, 
Ferdinand !" (2). Ngôn-ngữ bạt mạng của những trầm tư triết 
lý!
Cái Chết nặng nề và thường trực hơn 
với André Malraux. Ông viết trong Antimémoires : "con chữ 'cái Chết' làm phiền 
não tôi, với tiếng chiêng dập dồn". Và ông cho rằng "cái Chết luôn có mặt ở đó, 
như một chứng cứ không thể bác được về sự phi lý của cuộc sống" (La Voie 
Royale). Ông đào sâu vấn nạn cái Chết (mort, trépas) qua 3 điểm : 1- quan niệm 
khác biệt của con người và sự liên hệ với thế giới, 2- quan niệm khác biệt về 
thời gian và cái Chết và 3- khoảng cách giữa nghệ thuật trình diễn và nghệ thuật 
tư duy. Cái Chết là nguyên lý cốt lõi bao trùm tác-phẩm André Malraux; phiêu 
lưu, cách-mạng, sáng-tạo, tư duy và cả tình-yêu ... tất cả đều được dự kiến 
trong quan điểm của không thể vãn hồi "ngươi sẽ không bao giờ biết tất cả những 
thứ đó muốn nói gì...", những hóa thân, hy vọng, hấp hối và suy tàn. Cuộc đời 
André Malraux đã là môt chuỗi dài bi thảm với những cái Chết của người thân, 
người tình, đồng chí, bằng hữu và liên tục suốt cuộc đời, những cái Chết bi đát 
bệnh tật, tự tử (người cha), tai nạn (2 con trai, ...), xử tử (2 người em), v.v. 
ở Pháp, Tây-ban-nha, Đông dương, vào thời chiến-tranh kháng chiến và chống 
phát-xít. Cái Chết đưa vào trong tác-phẩm ông hoặc nhân-vật chết, tự tử, bị 
giết, Puig (Espoir) bị đạn bắn, Tchen (Condition humaine) bị ám sát, Dietrich 
Berger (Noyers de l'Altenburg) tự sát, Perken (Voie royale và Antimémoires) bệnh 
nặng chết ở nhà chờ chết ... Những cái Chết đó không thể không ảnh hưởng đến tư 
tưởng và tác-phẩm André Malraux. Nếu người đọc không biết gì về cuộc đời nhà 
văn, liệu họ có thể có cùng cảm nhận với nếu đã biết rõ không? Bộ ba (tryptique) 
rõ nét ở André Malraux: cái Chết như điều khiển, sắp xếp toàn thể dự án nghệ 
thuật qua ba cách thể : cái Chết làm suy mòn, cái Chết biến hóa và cái Chết vượt 
qua cái Chết; đó là ba hình thức của cái Chết : hấp-hối, biến thái và hy vọng. 
Nhân vật Perken đã nói thay Malraux : "Không phải vì chết mà tôi nghĩa đến cái 
Chết của tôi, chính ra là để sống"!
Cái Chết là đề tài mà Simone de 
Beauvoir đã đưa đến cho sáng tác văn-chương của bà cái nhạy-cảm rất hiện đại và 
một trực giác hiện sinh, thực hữu : cái Chết có mặt ở hầu hết các tác-phẩm 
văn-chương của bà, trong dàn dựng hình thức, nội dung cũng như tâm lý các 
nhân-vật chủ chốt. Với bà, và một số tác-giả hiện sinh, con người làm chủ trọn 
vẹn mọi hành-cử của mình với ý-thức nắm bắt ý nghĩa của hành cử, lấy lại tự do, 
dựng xây luân lý mới, hòa nhập vào lịch-sử. Cái Chết trở thành một đối đầu bi 
thảm, một thất bại, một bất công tuyệt đối, nhưng đồng thời cái Chết khiến cho 
cuộc sống có ý nghĩa, giá trị và cuối cùng, sự khẩn thiết phải sống và hiện 
hữu!
L'Invitée (Người khách, 1943) giải 
thích phân tâm về cái Chết của tha-nhân, người khác. Lời khai-từ dùng lại của 
Hegel trở thành chủ đạo của tác-phẩm : "Chaque conscience poursuit la mort de 
l'autre" (ý thức này đuổi theo cái Chết của ý thức kia). Cái Chết đã được xem 
như đồng nghĩa với hư-vô (néant). Les Mandarins đi sâu vào đề tài cái Chết và ám 
ảnh của tự tử : ám ảnh của cái Chết, của những người chết và của tự tử được phân 
tích bề sâu nến tảng của những ám ảnh hiện sinh đó. Các tiểu-thuyết Tous les 
hommes sont mortels (Mọi người đều chết), Le sang des autres (Máu kẻ khác) và vở 
kịch Les Bouches inutiles (Những miệng ăn vô dụng) là những ám ảnh về cái Chết 
vào cuối Đại thế chiến thứ hai, những ám ảnh do những khủng khiếp của 
chiến-tranh, khung cảnh tiểu-thuyết đầy bạo động. Có lúc bà dùng con chữ để xua 
đuổi cái Chết, để trừ ám ảnh quỷ quái về hư vô. Đề từ của Dostoĩevski "mỗi người 
có trách nhiệm về mọi sự trước mọi người" như được trãi rộng trong Le Sang des 
autres. Trong các tác-phẩm tiểu-thuyết cuối cùng, đề tài chuyển sang thời gian, 
tuổi già và cái Chết. La Femme rompue (Người đàn bà mệt nhoài) và Les Belles 
Images (Những Hình ảnh đẹp) tiếp nối ám ảnh về cái Chết, nhưng nhẹ tần số hơn. 
Hệ quả tuổi già tăng ám ảnh về thời gian qua mau và việc nhận dạng những kẻ chủ 
động giảm thiểu nhiều. Từ đây không phải là cái Chết mà chính tuổi già chống 
chọi lại sự sống! Đoạn cuối La Force de l'Âge (1960), bà đã nghĩ rằng "cái Chết 
không phải lúc nào cũng là một tai nạn đơn độc phi-lý; có khi cái Chết nối kết 
cái liên hệ sống động với người khác; do đó cái Chết có ý nghĩa và tự chứng 
thực" (3). Các nhân-vật trong tác-phẩm của bà thường thay mặt cho chính bà 
(Françoise trang L'Invitée, Anne trong Les Mandarins, …) và Jean-Paul Sartre 
người đồng hành của đời bà (Pierre trong L'Invitée, Robert trong Les Mandarins, 
v.v.).
Simone de Beauvoir đã dành trọn một 
cuốn tiểu-thuyết, Une Mort très douce (1964) để trình bày tỉ mỉ cái Chết của 
người mẹ, từ khi vào nhà thương đến khi trút hơi thở cuối cùng. So với những 
người khác, cái Chết vì bệnh nặng của mẹ bà thật dịu nhẹ, "một cái Chết được ưu 
đãi" (4). Chứng kiến diễn trình đưa đến cái Chết của người thân, bà đi đến kết 
luận : "Người ta không chết vì đã được sinh ra, cũng không vì đã sống và cả 
không vì tuổi già. Người ta chết (luôn) là vì một cái gì đó" (5). Như vậy là cái 
Chết đã qua được thời kỳ khủng hoảng của cuốn Tous les hommes sont mortels 
(1946). Sức mạnh của chốc-lát phù du giữa hư-không và toàn-bộ đã là đề tài khó 
khăn của nhiều nhà văn thơ khi vẽ lại cái Chết. Giây phút đầy xúc động mang ý 
nghĩa của Vô và Hữu, của Sinh và Tử, being / nonbeing, biến cố tột cùng mà Karl 
Jaspers gọi là grenzsituation (tình trạng ranh giới) 
(6).
Cũng cần nói đến Jean-Paul Sartre, 
người đã nói đến cái Chết như là quên lãng của thân xác, cái Chết không thể làm 
cho cuộc sống mất hết ý nghĩa (L'Être et le Néant). Ông đã nói đến hiện-tượng 
cái Chết và siêu nghiệm, vượt ngoài thực thể nội tại, một quên lãng thân thể : 
"Cái Tôi siêu nghiệm chính là cái Chết của ý thức" ("le Je transcendental, c'est 
la mort de la conscience"). Cái Chết kinh nghiệm là ngẫu nhiên, một khía cạnh 
của sự-kiện tính, cái Chết không tan chảy. Cái Chết không là một phần câú trúc 
bản-thể của thực-thể cũng không của chủ quan tính. Theo ông, bản-thể tách rời 
vật-cho-nó (pour-soi) và thân xác là một yếu tính cho 
vật-cho-nó.
Đối với nhà văn hữu thần như Roger 
Martin du Gard, cái Chết đã hiện diện như một xâu-xé khôn nguôi và đã trở thành 
đề tài thường trực của toàn bộ tác phẩm ông. Nỗi sợ cái Chết đã là chìa khóa bí 
mật của thiên-tư và cuộc đời ông. Các tác phẩm của ông cho thấy những ám ảnh của 
ông về tuổi già, tự tử, cuộc sống sau cái Chết, ... Antoine, một nhân vật của 
ông đã phát ngôn cho ông : "Rốt cùng thì chỉ có cái Chết hiện hữu thật : nó bác 
bỏ tất cả, nó vượt qua tất cả ... một cách phi 
lý".
Các nhà thơ văn trường phái 
Siêu-thực nêu lên những tương quan nghịch thường của cá nhân vô thần trước cái 
Chết để rồi chống cái Chết như Breton trong Premier manifeste du surréalisme. 
Với phái Siêu-thực, cái Chết thường trực hiện diện và qui hồi qua những hình ảnh 
sọ người, xương cốt, ma quỷ, quỷ hút máu, quái vật (sứa, nhân ngư và nhân sư), 
v.v. Ma trở thành nhân vật văn-học và giấc mơ được dùng như tâm điểm và bước đầu 
của sáng tạo! Để chống cái Chết, thơ văn siêu-thực dùng con người để tra vấn sự 
im lặng, tìm bí mật của sự hiện diện và biến mất của im 
lặng.
Nữ tác-giả Pháp gốc Nga Nathalie 
Sarraute viết nhiều về cái Chết, về những hiểm họa và biến thân của cái Chết. Bà 
không ngừng đục khoét ngôn-ngữ từ bên trong, tìm ra những sử-dụng thiết thực của 
con chữ, lột mặt nạ những bạo-động được che đậy hoặc vờ vĩnh của những trao đổi 
qua ngôn-ngữ. Bà dùng con chữ để vạch mặt sự tàn bạo không thể chối cãi của 
vô-ngôn. Bà đã trình bày rõ ràng sự bạo-động mờ ám của những im hơi lặng tiếng. 
Thế kỷ XX đã có những cuộc tranh cãi chữ nghĩa có tính lý thuyết và chính trị dữ 
dội, công trình ngôn-ngữ dài hơi của bà đưa ra ánh sáng những độc đoán bạo ngược 
nhất của sâu kín riêng tư. Nathalie Sarraute nhắc nhở sự hiển nhiên của thông 
cảm, truyền đạt đến nơi đến chốn qua những vết thương thực hữu của bà, trong khi 
thế giới nở rộ thứ văn-chương 'bất khả cảm thông' ngược lại. Có thời bà nhập 
dòng Tiểu-thuyết mới (Nouveau Roman) với Tropismes xuất bản năm 1939, chủ trì 
'bất khả cảm thông' ù lì, khách quan, qua những kinh nghiệm kiểu phòng thí 
nghiệm khoa học, nhưng cũng chính bà thực sự đã đem đến ý nghĩa mới về một sự tự 
chủ động/chủ thể hóa xuất từ những chạm trán khó nhận ra nhưng gây khủng-hoảng. 
Bà đã để lại một gia tài những tác-phẩm về một cách nhìn con chữ và thế giới, 
một cái nhìn sâu xa tận căn nguyên, không thể dễ xóa bỏ. Sử dụng con chữ với bà, 
trở thành một bài học về cuộc đời và khôn ngoan! Trong L'usage de la parole, 
ngay bài đầu tập, bà luận về lời nhà văn bác sĩ Nga Anton Tchekhov khi biết mình 
chết đã thốt ra câu rất ngắn 'Ich sterbe' ('tôi chết') rồi ngã xuống chết. Tại 
sao lại tiếng Đức, với bác sĩ người Đức bên cạnh người vợ Nga của nhà văn, trong 
nhà thương xa xôi để trị bệnh lao giai đoạn chót? Ẩn mình để chết và trối trăn 
bằng tiếng nước ngoài! Tình cảnh nơi thật xa xôi, vắng lặng thân quen, khi đẩy 
quá xa, lời thú 'Ich sterbe' sẽ qui hồi trở lại trên chính bản thân mình, thật 
mạnh mẽ làm lung lay toàn diện xác thần con người. 
(7).
Hiện-tượng tự chủ động/chủ thể hóa 
tức đi tìm sự sống lại, sự biến hóa thay đổi toàn diện, tìm thấy ở những tác-giả 
như H.G. Wells, R. Wright, nhất là Nathalie Sarraute. Nhân-vật dồn đẩy lùi quá 
khứ vào quên lãng, dựng một câu chuyện mới, và đóng một vai trò nào đó một cách 
lâu dài. Hành cử này được xem là phương tiện chống cái Ác. Trong tiểu luận L'ère 
du soupçon : essais sur le roman (1956), bà nói đến nhu cầu phân tâm con người 
nhân-vật và tiểu-thuyết đối với bà luôn là một câu chuyện trong đó nhân-vật hành 
cử và sống (8). Tiểu-thuyết bị nghi ngờ và bỏ rơi nhân-vật cho nghệ thuật phim 
ảnh vì thành kiến rằng tác-giả phân tích tình cảm tâm lý như một cắt nghĩa, 
trình bày. Theo bà, nhà văn phải dõi theo diễn trình tâm lý chôn kín và trình 
với người đọc như đang xảy ra và tại sao. Nhân-vật từ khuyết danh bước ra. Kỹ 
thuật và kiếm tìm do đó vẫn quan trọng.
Thần Chết đã được nhà thơ Wislawa 
Szymborska, giải Nobel văn-học 1996, văn-chương hóa : 
"Elle ne comprend rien aux 
plaisanteries,
ni aux étoiles, ni aux 
ponts,
ni au tissage, ni aux mines, ni au 
labourage,
ni aux chantiers navals, ni à la 
pâtisserie
Elle se mêle de nos projets et de 
nos agendas,
elle a son dernier 
mot
hors 
sujet.
Elle ne sait même pas 
faire
ce qui directement se rapporte à 
son art :
ni creuser une 
tombe,
ni bricoler un 
cercueil,
ni nettoyer 
après.
Toute à sa 
tuerie,
elle le fait 
gauchement
sans méthode ni 
doigté
comme si sur chacun de nous elle 
faisait ses gammes.
Plus d'un triomphe sans 
doute,
mais combien de 
défaites,
de coups pour 
rien,
expériences à 
recommencer
(...) Quiconque prétend qu'elle est 
omnipotente
est la preuve 
vivante
qu'il n'en est 
rien
Il n'est point de vie 
qui,
Même un court 
instant,
Ne soit 
immortelle.
La 
mort
est toujours en retard de cet 
instant précis" (9).
Những vần thơ nhốm đậm suy tư siêu 
hình và triết lý, với Wislawa Szymborska, cái Chết chỉ có giá trị tham-chiếu và 
ý thức !
Cái Chết 
lãng-mạn
Nhân-vật chính trong L'Amant của 
Marguerite Duras chết cái Chết lãng-mạn : yêu đến chết, yêu dù phải chết. Người 
chết không bao giờ chết ("Le mort n'est jamais mort", nói khác đi, 'anh không 
chết đâu anh!' như lời ca về cái Chết của một người lính)! Trước đó, 
Beaudelaire, có nỗi ám ảnh của cái Chết như là sự trừng phạt của tình yêu : "đĩ 
điếm và cái Chết là hai người nữ khả ái (...) Khi nào thì nhà ngươi muốn chôn 
ta, đĩ điếm trong vòng tay dơ nhớp?" (Fleurs du Mal, CXII - Les 2 bonnes 
soeurs). Lãng-mạn ở chỗ cái Chết trở nên nguồn hy vọng và là chính sự sống : 
"C'est la mort qui console, hélas ! et qui fait vivre / C'est le but de la vie, 
et c'est le seul espoir ..." (CXXII - La Mort des pauvres). Jorge Luis Borges 
một thời đã mê Fleurs du mal, lúc thoát ra được thì ông thấy tác phẩm này có cái 
gì đó không ổn, Beaudelaire quá ưu tư đến thân phận cá nhân của mình, quá quan 
tâm đến những hạnh phúc và bất hạnh riêng của mình. Lãng-mạn là ở đó! Ở Edgar 
Allan Poe, hình ảnh nước nặng nề, nước hồ tù hãm đã ngũ dĩ nhiên là nặng nề, 
chết sâu. Gaston Bachelard viết về tình trạng nhập nhằng nước đôi tương đối của 
nước trong văn của Poe : "nước thật sâu lắng, thật đã chết, thật ngũ say hơn bất 
cứ mặt nước chết nào, hơn bất cứ đáy nước sâu nào mà con người có thể tìm thấy", 
nước được so với cơn thèm chết. Nước mời chết, nhập vào với vật thể, trốn (tự tử 
thường trực / dipsoma nie de la mort) (10).
Honoré de Balzac và Guy de 
Maupassant nhiều lần đề cập đến cái Chết. Với tác-giả sau, nổi ám ảnh của cái 
Chết, nỗi sợ hãi về cô đơn, về thời gian, về cánh cửa, cửa sổ, đêm tối, bàn tay, 
người điên xuất hiện trong một số truyện như Bên một người chết (Auprès d'un 
mort), Tự sát (Suicide), Bức thư tìm thấy ở người chết đuối (Lettre trouvée sur 
un noyé), Người chết đuối (Le noyé), Người đã chết (La morte), Ngôi mộ (La 
tombe), ... Cái Chết ở Gabriel García Márquez vừa lãng mạn vừa hiện thực 
huyền-ảo. Chronicle of a death foretold trình bày cái Chết bi đát theo truyền 
thống bi kịch Hy-Lạp. Người thanh niên Santiago Nasar ngay từ những trang đầu đã 
bị án chết, dù oan và bất công, một cái Chết được loan báo rất sớm. Như 
tiểu-thuyết trinh thám, người ta đi tìm thủ phạm và lý do đế kết án, nhưng không 
hẳn là trinh-thám vì phong hóa, hủ tục địa phương của nước Columbia được xoi 
chiếu tận tình qua hình ảnh những định mệnh khắc nghiệt ! Trong One hundred 
years of solitudechuyện người chuyện ma của bảy thế hệ dòng họ nhà Buendia ở 
làng Macondo đâu đó trong rừng sâu Nam 
Mỹ-châu.
Theo Frederick J. Hoffman, văn-học 
về cái Chết không có mục đích phá hủy thể-nền của giá trị nhân bản, mà là cốt 
nhìn lại nền tảng những ngôn-ngữ đã được sử-dụng. Qua tập tiểu luận The Mortal 
No: Death and the Modern Imagination, ông đi tìm những hình thức và kỹ thuật 
văn-chương trung thực về phương cách trình bày những xung động bản năng, sự lôi 
cuốn sống động không thể không biết đến, tức vai trò thật sự của sáng tạo 
văn-chương đối với đề tài cái Chết (11). Cái Chết tàn khốc trong The Naked and 
the Dead (Trần Truồng và Cái Chết, 1948) của Norman Mailer, tác-phẩm được tạp 
chí Modern Library xếp vào số 100 truyện tiếng Anh hay nhất. Mailer, một tác-giả 
Hoa-Kỳ tự xưng theo chủ nghĩa hiện sinh. Truyện về những tàn bạo của 
chiến-tranh, của kẻ thù Nhật-bản và cả chính chỉ huy người Mỹ trong khung cảnh 
Đại thế chiến thứ Hai. Những cái Chết vì guồng máy chiến-tranh, khủng hoảng giữa 
nhân phẩm con người và sức mạnh máy móc, có khi vô hình, của cả một hệ thống, 
giữa nhân bản và máy móc. Đây là vấn nạn lớn của đời sống hiện đại, đề tài cùng 
được E. Hemingway, W. Faulkner, J. Steinbeck, Cummings, Dos Pasos, v.v. đề cập, 
riêng Mailer trội nhất, nhờ kinh nghiệm sống.
Với người Tây phương, thần Chết 
thường tượng trưng bởi bộ xương hoặc chiếc hái hoặc khủng khiếp cả hai. Có thời 
khuôn mặt người phụ nữ bị/được dùng cho hình ảnh cái Chết: ở Beaudelaire, "mắt 
nàng đầy ánh sáng cử hành cái Chết" (yeux pleins de lumière célèbrent la mort - 
Flambeau vivant); ở Cesare Vavesse : "cái Chết sẽ đến và nó sẽ chiếm hữu mắt nhà 
người"(la mort viendra et elle aura tes yeux). Nhân-vật nữ chết nổi tiếng: Manon 
Lescaut, Emma Bovary, Anna Karénine, Nastassia Philippowa, v.v. Vì tình yêu bị 
nguyền rủa, người nữ được yêu phải chết đơn giản chỉ vì bị tình yêu đó bị cấm, 
và tình cấm vì thuộc về người chủ (hay người cha!). Âu lo về cái Chết cũng là 
mối lo bị bỏ rơi, khi mất hay xa người mẹ. Mặt khác, tình yêu mạnh hơn cái Chết 
nên đã có những cái Chết và những hy sinh : Paul và Virginie của Bernardin de 
Saint-Pierre, người vợ trong Anh Phải Sống của Khái Hưng-Nhất Linh, ... Ngày xưa 
đã có những hiến tế mạng người, hy sinh tế thần để tập thể được sống! Và có yêu 
nên có Chết, đây là một vài chân dung cái Chết tình yêu 
:
- "Lúc đó, nàng dán chặt vào chàng, 
hôn mặt hôn môi, ôm ghì chặt chàng, hai thân mình quấn vào nhau, miệng trong 
miệng, và lúc bấy giờ một hơi thở dài phóng ra; tim ngừng đập và hồn nàng bay 
cao" (Tristan và Iseult).
- "Em muốn hôn môi chàng. Ôi, chiếc 
gươm (nàng chụp gươm của Roméo), đây là bao kiếm của chàng (nàng tự đánh mình), 
đây là mô chôn và hãy để em chết (Juliette ngã lên xác Roméo và chết" (Roméo và 
Juliette, V 3).
Từ cõi chết, con người hướng thượng 
tìm sự sống : những nhân-vật của Notre-Dame de Paris của Victor Hugo ngoi lên từ 
hầm mộ xương và xác người, hoặc Jean Valjean của Những kẻ khốn cùng, v.v. Sống 
vì phải sống và khi tình cảnh xảy ra, có thể chấp nhận chết để người khác được 
sống!
Cái Chết 
Á-Đông
Phía văn-học Trung quốc, Trang Tử 
chủ trương vui cái sống gắn liền với cái Chết. Ngoại thiên Chí Lạc chép truyện 
Trang Tử gõ bồn, theo đó sống chết cùng một thể, thế nên cứ vui sống cái sống 
gắn liền với cái Chết. Cái Chết hiện hình trong chiếc đầu lâu khô-khốc bên đường 
của cái sống. Cái Chết kề bên như trời che đất chở, và cái sống kề bên cái Chết, 
đầu lâu nói với Trang Tử trong mộng: chết còn vui sướng hơn sống nữa. Và thế là 
quên hẳn cả cái sống cùng cái Chết. Đó là đạt được thuật chí lạc đạt tới Đạo và 
quên hẳn cái sống và cái Chết. Bồ Tùng Linh thì mê hoặc người đọc chìm trong thế 
giới của người chết, những người chết có duyên có liên hệ với người sống: qua 
những chuyện liêu trai, thật-giả giả-thật không biên giới! Trước họ Bồ nhiều thế 
kỷ, văn học Trung Hoa đã ghi nhận những Oan Hồn Chí của Nhan Chi Thôi, Sưu Thần 
Ký của Can Bảo, v.v. về những oan hồn, bóng quế và những bài học đạo đức ở 
đời.
Trong văn-học chữ quốc ngữ của Việt 
Nam, đề tài cái Chết đã có mặt ở nhiều giai đoạn và mỗi thời đã có những đặc 
tính riêng. Thời trước 1945, có những tác-phẩm của Vũ Trọng Phụng, Nhất Linh, 
Thạch Lam, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Tchya Đái Đức Tuấn, Thanh Tịnh, Nguyễn 
Tuân, v.v. về những cái Chết của đời thường hoặc hồn ma. Riêng Nhất Linh đã đi 
từ cái Chết vì phong hóa của Thân trong Đoạn Tuyệt đến cái Chết non của Trương 
trong Bướm Trắng; phân tâm đặc sắc về nhân-vật Trương, về những tâm trạng chập 
chờn vô định của con người trước cái Chết: "Chàng sẽ ném đủ các khoái lạc ở đời, 
chàng sẽ sống đến cực điểm, sống cho hết để không còn ao ước gì nữa, sống cho 
chán chường. Trương thấy mình nô nức hồi hộp mà lại sung sướng nữa. Chàng sung 
sướng chỉ vì chàng thấy mình như một con chim thoát khỏi lồng, nhẹ nhàng trong 
sự tự do không bờ bến. Những cái ràng buộc, đèn nén của đời sống thường không 
còn nữa, chàng sẽ hết băn khoăn, hết e dè hoàn toàn sống như ý mình. Chết thì 
còn cần gì nữa? Bao nhiêu điều ham muốn bấy lâu, nhưng ham muốn không dám tự 
thú, hay bị đè nén đi trong một phút bùng bùng nổi dậy: một đời mới đợi chàng. 
Chàng thấy nóng ở hai tai".
Vào cuối giai đoạn xuất hiện tiếng 
thơ hoài cổ pha không khí siêu-thực của Xuân Thu Nhã 
Tập:
"Sớm nay tiếng chim 
thanh
Trong gió 
xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân 
tình
Ngàn xưa không lạnh nữa Tần 
Phi!
Ta lặng dâng 
nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời 
gian
Màu thời gian không 
xanh
Màu thời gian tím 
ngát
Hương thời gian không 
nồng
Hương thời gian thanh 
thanh..."
( Đoàn Phú Tứ, Màu thời 
gian).
Thời văn-học miền Nam 1954-75, 
Bình-Nguyên Lộc đưa người đọc đến với vùng đất mới nơi đã có những cái Chết và 
những hồn ma: Ba con cáo, Ba sao giữa trời, Hồn ma cũ, ... Ở Ba con cáo, là bản 
năng động vật, là cuộc tranh giành sự sống giữa người và vật, trong vật vã đói 
khát giữa một bãi tha ma, cuối cùng con người cũng chiến thắng về vật chất, 
nhưng lại trĩu nặng những di chứng tinh tâm: "Hồ ly rùng mình một cái, không 
phải vì lạnh, cũng không phải vì sợ ma, mà vì chị bỗng sợ hãi chính mình, sợ hãi 
con người đã vơi cạn hết chất người.". Sài-Gòn còn là bãi chiến trường của nhiều 
cuộc tranh hùng Miên-Việt, Đàng Trong-Đàng Ngoài, và cuối cùng là Pháp-Việt. 
Thời Minh Mạng rồi người Pháp đến xâm lăng, Sài-Gòn mọc thêm nhiều bãi tha-ma và 
bình địa. Từ những hoang tàn đó, mọc lên Sài-Gòn hôm nay, lớn rộng theo đà đô 
thị hóa, người sống-người chết và mới-cũ sống chung và cả tiêu diệt nhau. Truyện 
liêu trai Cõi Âm Nơi Quán Cây Dương căn bản là chuyện tình cảm giữa người sống 
và người chết, liên hệ hôm nay với hôm qua, mà còn là lời ta thán của những hồn 
oan của dân lành thời Pháp thuộc. Quán nhậu Cây Dương ở giữa đường 
Thủ-Đức-Sài-Gòn vốn là biệt thự dùng làm đồn bót cho phòng Hai của Pháp. Bãi đất 
chung quanh đã là nơi chôn cất của những người dân sau khi bị tra tấn, đọa đày ở 
trong ngôi biệt thự. Người sống và người chết tôn trọng lãnh địa của nhau (tôn 
trọng hài cốt chẳng hạn), đời ai nấy sống, thì đã không có những chuyện quấy 
phá, làm ... sợ!. Cũng như những ngộ nhận về quyền lực của ma: "Nếu người cõi Âm 
mà đủ quyền lực hại người của cõi Dương thì bao nhiêu kẻ sát nhơn đã bị lôi đầu 
xuống âm phủ hết cả rồi chớ có đâu mà cứ phây phây an hưởng nơi trần thế" (tr. 
151). Truyện trong hai tập Tân Liêu Trai (1959) và Cõi Âm Nơi Quán Cây Dương có 
vẻ quái đản nhưng kết cục khoa học thuần lý thay vì phải là hoang đường như các 
truyện thuộc cùng loại. Với Bình-Nguyên Lộc, người đọc biết không có ... ma, và 
ma nếu ... có thì cũng là thân thiết, có duyên nợ (hoặc là ruột thịt) mới được 
gặp nhất là gặp thường xuyên như nhân vật xưng Tôi với ma-nữ 
Trường-Lệ!
Doãn Quốc Sỹ trong Cái Chết Của Một 
Người viết về cái Chết của Thinh vì tai nạn cây ngã lên người, đã là một cái 
Chết không vô ích: "Cái chết của Thinh không còn là cái chết của Thinh nữa mà là 
cái Chết của một Người". Dương Nghiễm Mậu cũng viết về Kẻ Sống Đã Chết và một 
cái Chết không tên, Cái Chết Của ... (1971) một lão ăn mày, một cái Chết đáng 
suy nghĩ và sự mất tích của quan-án, đã xảy ra thời Từ Hải và Thúc Sinh của 
truyện Kiều!
Chiến-tranh 1957-1975 với hậu quả 
là những cảnh chết và những cái Chết tàn bạo, bất ngờ; cái Chết trong cuộc đời 
còn đa dạng và quá nhiều, hơn cả tác-phẩm của mọi thời đại văn-học. Trong thế 
giới chữ nghĩa, chúng ta có những cái Chết ký sự và kinh-qua của Thảo Trường 
(Vuốt Mắt 1969), Thế Uyên (Những Hạt Cát 1964, Ngoài Đêm 1965, Nỗi Chết Không 
Rời 1966), Nguyên Vũ (Trở Về Từ Cõi Chết 1967, Chết Không Nhắm Mắt 1968, Thềm 
Địa Ngục 1969, Khung Cửa Chết Của Người Tình Si 1969, Bóng Tối, Tiếng Cười Môi 
Hôn Và Nghĩa Trang1973), Trang Châu (Y Sĩ Tiền Tuyến 1970), Nguyễn Minh Nữu 
(Những Giọt Máu Giăng Ngang), Trần Hoài Thư (Những Vì Sao Vĩnh Biệt 1971), 
v.v.
Tàn cuộc chiến đó thì lại mở màn 
cho những cái Chết khác chưa từng xảy ra: những cái Chết 'cải tạo', khổ nhục 'tù 
đày không xét xử' và những cái Chết trên biển cả trong rừng sâu của những cuộc 
vượt biên tìm tự do và tình người! Ở ngoài nước sau biến cố 30-4-1975, một cộng 
đồng người Việt được thành hình từ những tai-ương và chết chóc. Đề tài cái Chết 
trở lại thường xuyên với người viết lưu-đày. Du Tử Lê đem vào thơ hình ảnh cái 
Chết non, tức tưởi, kết thúc một cuộc sống đứt đoạn, từ chối hội nhập và đời 
sống mới.
"... Khi tôi chết hãy đem tôi ra 
biển
và nhớ đừng vội vuốt mắt cho 
tôi
cho tôi hướng vọng quê tôi lần 
cuối
biết đâu chừng xác tôi chẳng đến 
nơi
Khi tôi chết hãy đem tôi ra 
biển
đừng ngập ngừng vì ái ngại cho 
tôi
những năm trước bao người ngon 
miệng cá
thì sá gì thêm một xác cong 
queo
Khi tôi chết hãy đem tôi ra 
biển
cho tôi về gặp lại các con 
tôi
cho tôi về nhìn thấy lệ chúng 
rơi
từ những mắt đã buồn hơn bóng 
tối
(... ) Khi tôi chết nỗi buồn kia 
cũng hết
đời lưu vong tận tuyệt với linh 
hồn"
Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển) 
(12).
Di chúc sớm cho người cùng thời mà 
như cho người sau, vì với những kẻ vì hoàn cảnh phải ra đi thì cái Chết không là 
nỗi hãi sợ lớn, có khi cái Chết trở thành nỗi ám ảnh biết là đang chờ đợi ! 
Ngoài ra càng về sau càng có những nhà văn thơ 'can đảm', lấy cái Chết làm đề 
tài, như Xuyên Trà :
"... khi ta chết, đất nơi nào cũng 
vậy
Thịt xương này đâu trở lại quê 
hương
Nơi sông núi mạch nguồn ta cắt 
rốn
Là trăm năm người hát khúc đoạn 
trường..."
(Lời Cuối, 
13).
Người theo dõi văn học hải ngoại có 
khi giật mình đọc những văn bản văn học mà có cảm tưởng đọc di chúc. Cái Chết là 
trực diện, còn kiếp sau thì nói cho qua, dễ nói: kiếp này không yêu được đến nơi 
đến chốn thì hẹn kiếp sau, đời sống dĩ lỡ, thôi chờ kiếp khác, mơ mộng đổi đời ở 
kiếp sau, v.v. Nhưng cái Chết là chuyện không thể tránh, cái sẽ đến và sẽ đến, 
như cuối một đoạn đường, chỉ có trước hay sau; trong tình cảnh lưu-đày trở thành 
cái tức tưởi, đớn đau vì như thiếu sót gì đó, như không tự nhiên ! Thành thử 
phải lên tiếng, phải cho người khác biết tâm thức bất thường đó ! Nhưng cái Chết 
dù sao cũng trở thành thiết yếu cho tương lai, như màu mỡ cho đất lạ, trở thành 
bông hoa, mầm sống, nhưng trong một không gian xa lạ, lạ từ khí hậu, cây cỏ, 
cảnh vật đến nhịp sống, khiến tâm thức lưu-đày trỗi dậy. Hình ảnh miếu đền hiện 
ra trên hành trình tâm thức đến với cái Chết như là ý nghĩa sau cùng, lúc thân 
xác suy thoái, hủy hoại. Với Du Tử Lê, chết là đi về quê nhà, lướt qua biển, 
gió, không trung,... không còn giới hạn trần gian. Nước, biển là nơi trú ẩn tìm 
kiếm, tuyệt diệu, nơi quy ẩn tránh đời, cũng là chốn cuối cùng mong về, như lẽ 
đương nhiên dịch lý. Những hình ảnh này hay thây trong văn chương lưu-đày. Viên 
Linh dựng hình ảnh Thủy Mộ Quan(cũng là tựa tập thơ của ông, 1982). Hình ảnh con 
nước từng đem đến sự sống lúc quyết định ra đi 
:
"Hai ngọn sóng ngược chiều về mỗi 
ngã
Ngọn quá khứ mịt mùng không thấy 
nữa
... Một tiếng biển chỉ một tiếng 
biển thôi
Một tiếng biển thì thầm mà lớn tới 
mênh mông
Lạc róc rách trôi vào cửa sống 
..."
(Mai Thảo. Hỏi Mình Giữa Biển) 
(14)
Thế giới mơ hồ, giả thật, sống 
chết, thế giới của Trang Tử. Giữa đời sống lưu đày thực và cơn mộng, nhà thơ vẫn 
lựa chọn mộng mơ, hoặc nói rằng họ sống cuộc đời hiện thực như trong một cơn mơ 
!
Lưu đày có thể trở nên nội tâm, 
nhập ngã thể. Nhà thơ Thái Tú Hạp thì nhìn cái Chết qua ngã tâm linh, một cuộc 
phiêu lưu thường là cá nhân. Tác phẩm ra đời từ âu lo, đau khổ phận người, lời 
thơ trở nên cứu rỗi, giải thoát, cho cá nhân mà cũng là cho tập thể cùng hoàn 
cảnh. Nhưng cái Chết từ điểm ngộ này hết là cá nhân, mà trở thành xã hội, tập 
thể. Những nổ lực gây dựng cộng đồng xác nhận cái Chết không phải là mục đích, 
mà là một tái dựng, không phải là đêm tối hay trống không mà là ánh sáng dù le 
lói yếu ớt nhưng loan báo một cuộc đời mới! Một trú ẩn vĩnh 
cữu!
Trong tình cảnh lưu-đày, nhìn ra 
cảnh vật xứ người, thiên nhiên, cây cối, cảnh vật trở nên nhẹ tênh, như hương 
khói, như trở nên không vật chất, không trọng lượng! Người buồn cảnh có vui đâu 
bao giờ cho nên cảnh vật , thế giới bị chặt nhỏ ra, bị tan tác, rời rã,... 
Nguyễn Xuân Thiệp (Tôi Cùng Gió Mùa) nhận chân bản ngã từ cảnh vật, từ những cây 
cỏ ở xứ người. Thơ Luân Hoán (Ngơ Ngác Cõi Người, v.v.) nói đến con người bị 
tuyết chôn vùi, trong lạnh vắng, như một giấc mơ. Không còn là tuyết phất phới 
bay trong những phim ảnh hay tác phẩm văn chương của người mà ta từng đọc hay 
xem ở quê nhà! 
Trở thành vong thân, mất bản ngã, 
mất hiện sinh, đưa đến cái Chết và xương, và miếu đền, ... Có người muốn trở về 
tuổi thơ và thời ngây thơ đã mất; ở đây ý thức mưu toan trốn tránh hiện tại. Tất 
cả mọi di dân đều lưu giữ chất truyền thống trong thân xác và tâm thức, trong 
người họ luôn có một phần lưu đày ! Người nghệ sĩ lưu dân đem một phần quá khứ 
đến cho hiện tại, đem giấc mơ gắn vào thực tại. Nhưng trong một tình cảnh bi đát 
vì bản ngã đang bị pha trộn, giữa hai chọn lựa, cả lâm vào tình trạng bị tước 
đoạt bản ngã văn hóa, sau khi đã mất bản ngã chính trị và kinh tế! Ta có thể 
trung thành với bản ngã, với mình, hơn là chấp nhận sống trong một xã hội "vay 
mượn"! Thành thử nếu rơi vào tình trạng đi trên mây, lạc lõng, là một hình thức 
lưu đày nhưng phải chăng lại là một tình cảm chưa trưởng thành? Điên loạn tâm 
thần, ứng xử cũng là một đề tài được nhiều người viết đụng đến, riêng những 
truyện của Kiệt Tấn là thành công nhất!
Sau Nguyễn Mộng Giác của Sông Côn 
Mùa Lũ có Trần Vũ khai thác những Cải Chết Sau Quả Khứ (1992) trong cùng vệ 
tinh, chiều kích của Nguyễn Huy Thiệp - dựng người chết sống lại, trong một bút 
pháp nét riêng. Bên cạnh những cái Chết trong salon chữ nghĩa là những cái Chết 
của goulag, của hồi ký; những cái Chết hiện thực của phi nhân, của chính-trị tà 
đạo hy sinh con người cho mục đích ngoài con người. Người viết là những người bị 
khổ nhục và trực diện với cái Chết nhưng vẫn tự tin và bất khuất. Khối hồi ký và 
bút ký về những cái Chết này bắt đầu với Trần Huỳnh Châu (Những Năm Cải Tạo Ở 
Bắc Việt 1981), v.v. cho đến nay 2008 vẫn còn tiếp 
tục.
Ở trong nước, từ khi chiến-tranh 
chấm dứt và từ khi nhà văn được 'cởi trói' (1987), đã có những hồn ma, xác chết 
đến với người đọc. Gia Long, Nguyễn Huệ, v.v. được Nguyễn Huy Thiệp cho sống lại 
và chịu tra vấn của con người bị dồn nén và bị trị hôm nay. Nguyễn Khắc Trường 
với Mảnh Đất Lắm Người Nhiều Ma (1990) bi quan khi tả những con ma vẫn tiếp tục 
lộng hành và đàn áp cả những người sống lên tiếng. Có nhân vật như ông bí thư 
đảng và trưởng tộc họ còn mượn danh ma nấp bóng ma để chiến thắng kẻ thù đang 
tấn công gia đình họ lên là nhờ lợi dụng thần thế. Truyện như không có hậu, có 
thể vì ma hãy còn đầy rẫy trong xã hội chăng? Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh 
(1990) kể chuyện người lính trinh sát tên Kiên; anh gia nhập chiến tranh với lý 
tưởng, được gửi vào Nam, nhưng đã bị thực tế chiến trường làm hèn đi. Những trận 
mưa mọt xương, chui rúc hầm hố, lượm xác đồng đội, những đồi ma ở cao nguyên Ban 
Mê Thuột, những xác chết và những xương xác người chết. Những tuyệt vọng của 
Kiên và đồng đội, những nỗi sợ máy bay thả bom, những tàn bạo của cuộc chiến, 
những thấp hèn của chỉ huy, đồng đội. Gọi là 'cởi trói' nhưng xã hội toàn trị 
không pháp-định thì lại có những cái Chết khác, như kiểu Một Cái Chết Thong Thả 
của Nhật Tuấn - thong thả nhưng vẫn chết! Những năm gần đây nổi lên thị trường 
sách dịch tác-phẩm của các tác-giả Âu Mỹ trong đó ấn phẩm về đề-tài cái Chết 
chiếm số lượng đáng kể. Con người sống và kiếm tìm tâm linh nhiều hơn, hay cái 
Chết là một lối thoát đáng được chuẩn bị hơn?
Cái Chết kinh-dị, 
trinh-thám
Sau những cái Chết siêu nhiên, tâm 
linh, tự nhiên và nhân bản, là những cái Chết tức tưởi, bí ẩn, đích đáng, v.v. 
của các tiểu-thuyết trinh-thám đen. Con người vốn ham sống sợ chết, đó cũng là 
yếu tố tâm điểm được các tác giả trinh thám khai thác. Từ 'roman noir' được 
tác-giả người Pháp sử dụng đầu tiên. Tiểu thuyết trinh thám đen không có đất cho 
cái kì ảo tồn tại, nghĩa là, nó vẫn được giải thích, dẫu đến cuối truyện mọi 
việc vẫn có thể còn chìm trong sương mù - trong các thể loại truyện hư cấu khác, 
cái kết có thể có những màu hồng, xanh, vàng, v.v. , tức là có đáp số, nếu đen 
cũng đã phải pha loảng, nhuốm màu. Thể loại trinh-thám và tiểu-thuyết đen một 
thời khá lâu từng được xem như là thể-loại phụ (paralittérature, cận văn-chương) 
chúng tôi gộp tổng quát không phân biệt chi tiết vì không phải là mục đích của 
bài viết, những tiểu-thuyết giả tưởng (fiction) gián điệp, trinh-thám 
(thriller/polar, néo-polar), polar, roman noir, roman à suspense, thriller, 
roman-problème, v.v. Gốc Anh của tiểu-thuyết đen còn được gọi là tiểu-thuyết 
trung-đại (gothic) đã khởi từ Horace Walpole (Château d'Otrante, 1764). 
Nghệ-thuật trung-đại là một nghệ-thuật lấn lướt, khai thác cái Chết một cách tàn 
bạo.
Nếu cái Chết là bình thường, tất 
yếu trong văn-chương tình cảm, xã hội, lịch sử, thì trong thế giới trinh-thám, 
cái Chết trở thành bất bình thường, như đã có sắp đặt tỉ mỉ, như biết trước, chờ 
đón. Ở đây xin mở dấu ngoặc để xác định rằng cái Chết trong các 'tác-phẩm' minh 
họa của các chế độ toàn trị được cấu trúc bởi ý thức hệ, do đó mất đi tính 
tiểu-thuyết và trở nên ảo tưởng vì không mang tính nhân-bản - trinh thám trở 
thành tình báo, mưu đồ, cốt truyện và kết thúc đã được đoán 
trước.
Màu Đen được gán cho cái Chết, thần 
chết, sự hoặc cái tiêu cực, gợi lạnh lùng, bóng tối thời hồng hoang, hư không 
vĩnh viễn, hư vô, gợi màu tang tóc - một màu tang tóc nặng nề, vô vọng (khác với 
màu trắng tang tóc nhất thời và ẩn tàng sự cứu rỗi hoặc hồi sinh). Đen cũng là 
màu của trừng phạt và mặt khác đồng nghĩa với sự chối-từ hư-danh trần thế. Trong 
văn-chương, màu đen ngầm chứa màu mỡ, cần khám phá. Thần vệ nữ Vénus được tôn 
sùng như là đêm đen nguồn cội của tạo vật, mẹ của thần linh và loài người! Nhưng 
nói chung, màu đen ở tiểu-thuyết đen gắn liền với cái Ác và vô thức, như ý đồ 
đen tối, tâm đen, tương ứng với khí Âm có tính thế tục, bản năng, do đó dễ sắp 
đặt chằng chịt, như mạng nhện và trở thành là cái phải được khai thác, tìm hiểu 
- như những ẩn ngữ ! Những trang trí, hình ảnh nghĩa địa, hầm mộ, cái hòm, những 
hành lang và tầng dưới mặt đất, tầng hầm tối tăm và nguy hiểm, những bên trong, 
v.v. thường được các tác-giả tiểu-thuyết đen sử-dụng. Ma quỷ thường có mặt, rốt 
cùng chính là lương tâm của người sống, thay mặt cho ý thức và lương tâm, theo 
dõi và trừng trị người làm lỗi; một loại siêu-ngã (surmoi) mẫu tử lộn xộn, 
chuyên chế. Giới tính của ma quỷ không quan trọng, nhưng nam nữ, Cha hay Mẹ cũng 
như thế hệ, thời đại đều có những đặc tính riêng. Tiểu-thuyết đen liên hệ đến 
cái Chết và thường là cái Chết Động. Tiểu-thuyết đen ngay từ buổi đầu, nó đã bị 
kỳ thị, khinh khi bởi giới trí thức, vì sự có mặt của nó là để phục vụ đám đông; 
chúng đã bị rẻ rúng, xem như không phải là văn-chương vốn được xem là cao quý, 
thượng lưu.
Edgar Allan Poe đã có cái nhìn siêu 
hình bi quan trộn lẫn với những yếu tố của chủ nghĩa hiện thực, hài hước và châm 
biếm. Ông đã cách tân thể loại truyện ngắn dự báo sự ra đời của tiểu thuyết khoa 
học giả tưởng, kinh dị và huyễn hoặc. Chủ đề về cái chết-trong-khi-đang-sống, 
đặc biệt là bị chôn sống hoặc trở về từ nấm mồ như một con ma-cà-rồng, xuất hiện 
trong nhiều tác phẩm của ông. Cái thế giới hỗn mang giữa sống và chết của Poe và 
những bối cảnh mang tính Gothic, màu mè, hào nhoáng của ông không chỉ thuần túy 
để làm phông trang trí (15). Chúng phản ánh đời sống nội tâm đã tiến bộ, văn 
minh nhưng vẫn đượm màu chết chóc hoặc là tâm thần bấn loạn của những nhân vật 
của ông và chúng là những biểu hiện tượng trưng của vô thức, và do vậy là trung 
tâm trong thẩm mỹ học của ông. Poe đã mô tả chính xác mặt trái của giấc mơ Mỹ về 
con người tự lập và phơi bày cái giá phải trả của chủ nghĩa thực dụng và cuộc 
cạnh tranh tàn bạo - sự cô đơn, tha hóa, và những hình ảnh của cái 
Chết-trong-lúc-đang-sống. Auguste Dupin là nhân vật thám tử tài tử trong các 
truyện trinh thám của ông xuất bản từ năm 1841 tới năm 1844, gần 50 năm trước 
khi Sherlock Holmes ra đời. Nếu những câu chuyện kinh dị của ông dự báo trước 
những tác phẩm của các tác giả chuyên viết truyện kinh dị Mỹ như H.P. Lovecraft 
và Stephen King, còn những truyện suy lý là những con chim báo hiệu của loại 
tiểu thuyết trinh thám của Dashiell Hammett, Raymond Chandler, Ross Macdonald, 
và John D. MacDonald. Nhân-vật Dupin được xem là nhà thám tử đầu tiên trong lịch 
sử văn học thế giới và Poe đã được xem là cha đẻ của tiểu thuyết trinh thám hiện 
đại.
Ngay từ Jules Verne, Victor Hugo và 
Edgar Allan Poe, ngoài sự mô tả tình tiết của phạm nhân hay kẻ sống ngoài vòng 
pháp luật, đã có trình bày quá trình suy luận để vén màn bí mật của câu chuyện. 
Rồi đến những truyện của Arthur Conan Doyle (1859-1930) với thám tử quen thuộc 
Sherlock Holmes có khả năng quan sát thần tốc và biệt tài dùng khoa học suy luận 
để giải đoán sự việc một cách thần diệu, và Maurice Leblanc (1864-1941) với 
nhân-vật ông vua ăn trộm Arsène Lupin, Georges Simenon (1903-1989) với nhân vật 
thám tử Maigret, khởi từ phi lý đi đến dấn thân, hướng động, hiện thực cụ thể và 
kín đáo. Rồi nào Gaston Leroux (1868-1927), Agatha Christie (1890 - 1976), F. W. 
Crofts (1879 - 1957), v.v. Các tác-giả Anh có thể kể thêm James Hadley Chase 
(Eva), John Le Carré, Niall Griffiths (Grits, Wreckage), ,,, ... Kazuo Ishiguro 
(1954-) người Anh gốc Nhật, với truyện trinh-thám viễn tưởng Never Let Me Go 
(2005), v.v. Tác-giả tiên phong về thể-loại của Nga-sô là Alexandre Chkliarevski 
(1837-1883) với Enquête secrète, L'esprit des péninsules, 
...
Tác-giả nữ Hoa Kỳ đầu tiên là 
Anna-Katherine Green với The Leavenworth Case 1878, The Mystery of the Hasty 
Arrow 1917. Hiện nay các tác giả nữ nổi tiếng là Mary Higgins Clark, Elizabeth 
George, Patricia Cornwell, v.v. Được báo chí phong là nữ hoàng của truyện trinh 
thám Hoa-Kỳ, bà Patricia Cornwell (cũng như bà Elizabeth George) nổi tiếng với 
những truyện trinh thám về những tên sát nhân hàng loạt (serial killer) và những 
cuộc săn đuổi truy tìm thủ phạm gay cấn và khoa học của nữ thám tử giảo nghiệm 
tử-thi Kay Scarpetta, Kay Scarpetta series đã xuất bản được 15 tựa; ngoài ra tập 
Portrait of a Killer: Jack the Ripper - Case Closed (2002) gây chấn động khi bà 
kết luận rằng thủ phạm giết Jack the Ripper là họa sĩ Walter Sickert, giải tỏa 
bí ẩn hình sự đó.
Agatha Christie (1890-1976) một 
thời được xem là Nữ hoàng trinh thám, tác-giả 66 tiểu thuyết trinh thám, với hai 
nhân vật thám tử nổi tiếng, Hercule Poirot (thám tử lập dị người Bỉ) và Jane 
Marple (Miss Marple, bà phải là một thám tử nhưng phá giải được nhiều vụ án chỉ 
bằng trực giác nhạy bén và sự tập trung cao độ). Tiểu thuyết trinh-thám đầu tay, 
The Mysterious Affair at Styles, xuất bản năm 1920 giới thiệu cho độc giả nhân 
vật thám tử nổi tiếng Hercule Poirot, người sẽ xuất hiện trong 30 tiểu thuyết và 
50 truyện ngắn khác. Còn nhân-vật thám tử kia, Bà Marple xuất hiện lần đầu trong 
The Murder at the Vicarage năm 1930 và 11 tập 
khác.
Hiện tượng loại tiểu thuyết đen 
(romans noirs) còn gọi là loại gây xúc động (thrillers) của các tác-giả Hoa-Kỳ. 
Raymond Chandler (1888-1959 với nhân-vật Philippe Marlowe nổi tiếng). Rồi 
Dashiell Hammett (1894-1961) mà nhân-vật Sam Spade được Humphrey Bogart làm cho 
bất tử trong phim The Maltese Falcon. Truyện nổi nhất, Mặt Nạ Đen, trong đó, ông 
đưa ra tay thám tử tư đầu tiên nhưng không tên, ‘Continental Op’(Red Harvest, 
The Dain Curse), sau đó là các thám tử Sam Spade(The Maltese Falcon), Nick and 
Nora Charles (The Thin Man). Năm 1927 Mùa Gặt Đỏ (Red Harvest), trong đó, người 
ta gặt người, và đỏ, máu. Nhân vật chính, một ‘operateur’, một thám tử, tới một 
thành phố ô nhiễm, Poisonville, làm sạch nó. Tại những ngã tư, nhìn mấy ông phú 
lít râu ria lởm chởm, quần áo lôi thôi, tay này vừa lái xe vừa gật gù cái đầu, 
thành phố này có vấn đề. Hammett không làm văn chương, hành văn khô khan nhưng 
gợi hình. Văn của ông trần trụi. Ông bệ tiếng lóng từ đường phố vào văn-học. Sau 
thế chiến 2, ông bị kết án là cộng sản và tiểu-thuyết của ông bị lấy ra khỏi các 
thư viện công cộng. Các tác-phẩm đầu tay của ông như The Big Knockover xuất bản 
đầu thập niên 1920 trong loại sách được gọi là 'Pulp' (in trên loại giấy còn vẩn 
gỗ nát). Tác-giả Mickey Spillane (1918-2006) dựng thám tử tư Mike Hammer - chính 
tác-giả đã thủ vai thám tử Hammer trong bộ phim Girl Hunters. Ông còn dựng lên 
nhân-vật siêu điệp viên Tiger Mann được ưa chuộng trong thập niên 1960. Nhân-vật 
của ông có khuynh hướng ‘chơi rắn’ và ‘gợi cảm’. Nguyên tắc sáng tác của ông là 
viết những gì mà ông cũng thích đọc và nếu độc giả ưa chuộng lại càng hay. Cốt 
truyện giản đơn, không cần triết lý cao siêu, phức tạp cũng không cần những dằn 
vặt nội tâm; ngay cả không quan trọng việc ông thích hay không thích hành vi của 
các nhân vật. Mickey Spillane tác-giả tuyệt phẩm One Lonely Night (1951), về một 
viễn ảnh đen tối luật rừng của đô thị sau Đại thế chiến Hai, và The Deep (1961) 
(16).
Người viết theo khuynh hướng và 
được gọi là trường phái Hard-boiled School (‘dân chai đá’ ‘cứng cựa’, ‘un dur à 
cuire’), tiểu-thuyết đen (roman dur) này thường là miêu tả hành động tàn bạo, 
‘giết người như ngóe’ đam mê tốc độ và dục tình trong khung cảnh thành phố hay 
trên đường nhựa. Nhân-vật thường chai đá bạo động và không chấp nhận sống theo 
khuôn khổ. Thể-loại này được các tác-giả Hoa-Kỳ như ba tác-giả vừa nói và Jim 
Thompson, David Goodis, v.v. mở đầu từ những thập niên 1920-1930 với những 
nhân-vật chính thường là ông cò, thám tử, xếp băng cướp hành xử một loại công lý 
hảo hán vì thế nhân mà hành đạo (nhưng chính các tác-giả người Anh đưa thể-loại 
lên đỉnh cao của nghệ-thuật, thường được gọi là tiểu-thuyết polar hay polar 
đen). Tiểu thuyết trinh thám đen của Hoa-Kỳ có thể xuất thân từ tiểu thuyết 
phiêu lưu viễn Tây, tìm vàng, giết người như ngoé, không khí bạo động hoang dã, 
tột cùng. Có tác-giả như Hammett đã đạt tới đỉnh cao thể loại khi miêu tả nhân 
vật và hành động rất ấn tượng, đã đem các nhân-vật từ miền Viễn Tây đến các đô 
thị với cùng luật của kẻ mạnh 'bắn chậm thì chết'. Tác-giả khác như Chandler thì 
đào sâu tâm trạng các nhân-vật, trình bày những diễn tiến tâm lý sâu xa. Nhu các 
nhà phê bình văn-học Hoa-Kỳ đã nhận xét, chính cái không khí căng thẳng của hậu 
thế chiến thứ Hai với những luật lệ căng thẳng như cấm rượu, như lùng bắt những 
kẻ thân Cộng, những thứ đã biến tất cả những người công dân của nó trở thành 
những kẻ phạm pháp.Nói chung, các tác-giả tiểu-thuyết đen này đã ảnh hưởng lên 
nền điện ảnh Hoa-Kỳ cho đến gần đây.
Cuối cùng là thế hệ tiếp nối của 
những Stephen King, Dan Brown, v.v. Stephen King, được gọi là ông vua của tiểu 
thuyết kinh dị hoặc ông vua toàn cầu về tiểu-thuyết bán được, từ tập tiểu thuyết 
đầu tay Carrie(1974). Ông có một lối viết rất mới, rất bình dân, đi thẳng vào 
cốt truyện, gài những sự kiện, gây tâm lý chờ đợi hồi hộp để đến một lúc nào đó 
bung cả ra tạo những bất ngờ lớn làm say mê người 
đọc.
Tóm, đề tài thường khủng khiếp, 
nhưng chính kỹ thuật tình tiết (gây ngạc nhiên và rối loạn nơi người đọc) và 
nước đôi thực-giả khiến các tiểu-thuyết này trở thành phổ cập và đại chúng. Theo 
một số lý thuyết gia văn-học như Gérard Genette (17) thì thể-loại này thuộc về 
tưởng tượng, phi thực nhưng liên quan và bén rễ trong những thực tại xã hội và 
chính-trị của thời đại, nhưng nguyên tắc vẫn là thực giả mờ ảo hoặc hoà tan (có 
tác-giả như Thierry Jonquet 1998, ... từng bị đưa ra tòa). Da Vinci Code (2003) 
của Dan Brown muốn giải mã một số bí mật và ẩn-số lịch sử xa xôi, và đã đụng 
chạm nhiều tôn giáo, quốc gia. Tính ngụy trang thực tại (tham khảo và tin vặt 
của đời sống) của tiểu-thuyết đen đã khiến thể-loại này bị loại ra ngoài 
sáng-tạo văn-chương - ngoài yếu tố ngôn-ngữ không được xem trọng tâm ở 
tiểu-thuyết đen (cũng như trinh-thám . Kỹ thuật tham chiếu và hư-cấu sáng-tạo 
khác biệt nhưng hòa hợp ở tiểu-thuyết đen, nói như Jim Harrison, "Il n'y a pas 
de vérité, il n'y a que des histoires" (không có sự thật, chỉ có những chuyện 
được kể lại). Có những tác-giả đi xa, trở lùi thời gian như Bernard Knight đặt 
truyện trong bối cảnh thời Trung-cổ và ở nhiều nơi khác là đất Anh của ông. Có 
thể nói một số cây viết Việt Nam gần đây đi vào con đường này, như Trần Vũ trong 
truyện điếm đàng lịch sử "Giáo sĩ" (18). Một tùy tiện sử dụng lịch sử mà giáo sư 
Nguyễn Văn Trung đã lên tiếng cảnh báo. Trần Vũ đã phản ứng lại trong bài "Lịch 
sử trong tiểu thuyết - một tùy tiện ý thức" kết luận rằng "Sự thật nằm trong 
kinh thánh. Cựu Ước và Tân Ước, những cuốn tiểu thuyết hiện thực huyền ảo") 
(19). Thiển nghĩ cần phân biệt chân-lý phổ quát với sự kiện lịch 
sử!
Gần đây thể-loại tiểu-thuyết đen tự 
phân thân ra những trinh-thám suy-luận chính-trị, tư pháp, y khoa, tâm lý, kinh 
tế, tài chánh, lịch-sử, và dĩ nhiên hình-án. Biên giới giữa các loại tiểu-thuyết 
đen rất mơ hồ, nhập nhằng không dễ phân biệt. Nếu phải phân loại thì nói chung 
có thể ghi nhận ba loại : tiểu-thuyết hình án (cảnh sát), tiểu-thuyết kinh dị và 
tiểu-thuyết thực sự đen. Hoặc thu gọn trong hai loại: tiểu thuyết bí ẩn (roman 
énigme) và tiểu thuyết đen (roman noir). Đối với roman énigme, người điều tra sẽ 
đứng bên ngoài và quan sát diễn biến sự việc. Còn đối với roman noir, người điều 
tra cũng là một mắt xích trong câu chuyện. Nếu tiểu-thuyết đen của Pháp đặt nặng 
vai trò của tội-phạm thì các tác-giả Anh lại cho thám tử vai trò quan trọng và 
thường là nhân-vật chính. Trinh thám Pháp thường đi sâu vào phần điều tra và 
phân tích tâm lý, trong khi tiểu thuyết trinh thám Mỹ lại nhấn mạnh vào phần 
hành động của nhân vật. Dòng tiểu thuyết trinh thám Pháp đã từng phôi thai từ 
rất lâu trước đó với các tác phẩm của Alexandre Dumas, Eugène Sue và gần hơn là 
Eugène Dabit.
Trong loại tiểu-thuyết hình án, có 
hai câu chuyện: chuyện cái Chết và chuyện điều tra. Hai câu chuyện như một lưỡng 
đầu đọ sức, đọ thông minh và trực giác. Những bí mật, tiềm ẩn sẽ được khám phá, 
đưa ra ánh sáng. Suốt câu chuyện sẽ là những hồi hộp, ngạc nhiên liên tục, tiếp 
nối. Tiểu-thuyết đen xuất hiện từ văn minh kỹ nghệ và đời sống đô thị, đem xã 
hội vào tiểu-thuyết hình-án. Thế giới bạo động thực sự này được đưa vào 
tiểu-thuyết khiến tiểu-thuyết đen trở nên hình ảnh của một thế giới mà cái Thiện 
và Ác khó có thể phân biệt và các giá trị luân lý, văn hóa cũng mất dần tầm quan 
trọng. Tiền bạc và quyền lực sẽ thay thế luân lý và trí thức. Từ vũng lầy đó, ảo 
tưởng sẽ ngự trị, con người sẽ phải đối đầu với đảo lộn tôn ti và tương quan lực 
lượng.
Trong số các tác-giả Pháp hiện nay, 
xin nói đến Didier Daeninckx và Jean-Patrick Manchette (1942-1995). Manchette 
nhập dòng trinh-thám Série noire năm 1971 với Laissez bronzer les cadavres (avec 
Jean-Pierre Bastid) và L'Affaire N'Gustro. Tác phẩm Laissez bronzer les cadavres 
(Cứ để cho xác chết bị mặt trời nướng chín) báo hiệu sự khôi phục mạnh mẽ của 
dòng tiểu thuyết trinh thám Pháp, với trường phái mới của trinh thám Pháp ra đời 
dưới danh hiệu "néopolar".
Didier Daeninckx mà tác-phẩm đầu là 
Mort au premier tour (1982, Giải thưởng văn học trinh thám / Grand prix de 
littérature policière năm 1985, sau ông viết lại, chỉ giữ ba dòng đầu), Meurtres 
pour mémoire (1984), La Mort n'oublie personne (1989), La Mort en dédicace 
(2001) đến những tập gần đây Je tue il (2003), Le Crime de Saint-Adresse (2004), 
Itinéraire d'un salaud ordinaire (2006) và Histoire et faux-semblants (2007). 
Nhân-vật thám tử Cadin thiên tả có mặt từ tiểu-thuyết đầu Mort au premier tour 
(tranh đấu bảo vệ môi sinh) đã được tác-giả cho chết vào năm 1989 trong Le 
Facteur fatal. Truyện Je tue il về đề tài xâm-phạm tác-quyền văn-học và 
xuất-bản, khởi từ bí mật của nhân-vật tự xưng là René Trager, tự nhận là nhà văn 
Paris. Chuyện xảy ra ở Nouvelle- Calédonie, vào thời Mỹ rút quân khỏi đảo sau đệ 
nhị thế chiến chiến thắng chống Nhật. Nhân-vật Viviane xưng 'tôi' lầm tưởng thật 
nên đã lập gia đình với nhà văn giả mạo. Y ('Il') trốn ở đảo, ngày ngày vào thư 
viện xóa tráo tên các tác-giả trên sách báo; khi y chết bà vợ Vivianne mới khám 
phá ra đã mạo danh René Trager nhà văn thật sống ở Paris. Chính Daeninckx từng 
là nạn nhân tương tự năm 1990.
Didier Daeninckx vẫn dùng đề tài 
thời sự ở Pháp và các thuộc địa, lãnh địa của Pháp như lịch-sử như cuộc thảm sát 
ở Algérie thuộc địa Pháp ngày 17 octobre 1961, những đòi hỏi của dân tộc kanak 
thuộc đảo Nouvelle-Calédonie (Le Retour d'Ataï, 2002), v.v. Ông có đến Việt-Nam 
năm 2006 cổ động tiểu-thuyết Pháp và cuốn La Route du Rom (2003) của ông dịch ra 
Việt ngữ với tựa Đường Du Mục. Trong tác-phẩm của ông, cái Chết đa phần là khả 
nghi và do thủ đoạn, tà tâm; và ông tự cho có sứ mạng 'bổn-phận không-vâng-lời' 
vốn là kim chỉ nam của ông từ khi bắt đầu viết truyện trinh-thám : sứ mạng đấu 
tranh chống lại những im lặng, những mờ ám của lịch sử (chủ nghĩa bài Do Thái, 
chiến tranh tại Algerie, chủ nghĩa thuộc địa, ...), phơi bày chúng ra trước ánh 
sáng công luận và lịch-sử !
Tác-giả người Việt Pháp-thoại Trân 
Nhut Thanh Van và Trân Nhut Kim, hai chị em, cùng là tác-giả của Le Temple de la 
grue écarlate (1999), L'Ombre du prince (2000), La Poudre noire de Maĩtre Hou 
(2002), L'Aile d'airain (2003, Trân Nhựt Thanh Vân ký), L'Esprit de la renarde 
(2005), Les Travers du docteur Porc (2007); tất cả đều do nhà xuất bản Philippe 
Picquier. Một phần bộ truyện đã được dịch ra tiếng Nga, Tây-ban-nha, Nhật-Bản, 
Ý. Vừa là tiểu-thuyết lịch-sử vừa là trinh-thám, bộ truyện được đặt vào khung 
cảnh Đại Việt thời Trịnh-Nguyễn phân-tranh thế kỷ XVII trở đi với nhân-vật chính 
là quan Tân, từ khi thi Hương xong được cử về tỉnh nhỏ đến khi được bổ về triều 
làm đến thượng thư; từ những vụ án ở kinh thành Thăng Long đến thời nhiểu nhương 
Việt Nam trở nên cái đích của thương nhân và thực dân Tây phương (tác-giả cho 
rằng người Việt cởi mở về tín ngưỡng). Hai tác-giả dựng nên nhân-vật quan Tân, 
một ông quan án lý tưởng vừa công minh vừa dào dạt tình người, từ những hiểu 
biết về một ông cố ngoại năng động và trực tính từng được bổ nhiệm làm quan án 
khi hãy còn rất trẻ. Quan Tân dù trẻ nhưng vẫn có những dị đoan và hành xử trung 
với vua như người thời đó (cũng vì trung nên sau theo phe chúa Trịnh dù biết là 
phe thua), đã phải vận dụng tài trí và khả năng hơn người để đối phó với nhiều 
thành phần và nhóm người thế lực trong xã hội, từ các quan, công chức, đến các 
nhà nho, tăng sĩ, băng đảng, và cả hoàn cảnh cá nhân (quan trẻ lọt vào mắt của 
cha mẹ các thiếu nữ tới tuần cập kê), gia đình (trong l'Aile d'airain ma nữ đồng 
trinh trả thù sex đàn ông, quan Tân phải đi lùi quá khứ gia phả để phân xử và 
hóa giải những ác lực tối tăm đang bủa vây lên người trong làng và cả chính tâm 
hồn ông), v.v. Cái nền văn-hóa, phong tục (vai trò người phụ nữ, những liên hệ 
với Chàm) và con người Việt Nam được chủ tâm đề cập và phân tích. Những thần 
thánh, ma quỷ và mê tín dị đoan (thờ cúng tổ tiên, bái vật, ma thần vòng, ma 
nhập, thú vật đầu thai, ...), những sinh hoạt tính dục thăng hoa trường sinh, 
v.v. cũng được vận dụng trong những kỹ thuật và tâm lý điều tra. Nhãn quan hiện 
đại được các tác-giả tài tình hội nhập vào suy nghĩ và hành động của các 
nhân-vật chính cũng như phản diện. Hai bà đã thành công đánh vào thị hiếu của 
độc giả người Pháp vốn không dễ tính.
Ở đây không thể không nhắc nhở bộ 
tiểu thuyết công án Trung Hoa được nhà Đông-phương học Robert Van Gulik viết 
lại, Celebrated Cases of Judge Dee ('Địch Công Án'/Những cuộc điều tra của quan 
Đề, 1968) gồm 17 tập. Một loại tiểu-thuyết trinh-thám về quan án Địch Công được 
xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630-700) một nhân-vật 
có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII, một quan toà cổ đại Trung Quốc 
mang dáng dấp của những Philippe Marlowe, Sherlock Holmes, ... dưới ngòi bút của 
tác-giả. Xuất phát từ bộ Đường Âm Tỉ Sự tác phẩm Trung Quốc thế kỷ 13, Robert 
Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, 
lịch sử, phong tục của Trung Quốc, khiến truyện thêm nét độc đáo. Một phần bộ 
truyện đã được dịch ra tiếng Việt : Xử án trong tu viện, Bí mật quả chuông, 
v.v.
*
Dân Á châu, Trung Hoa, Nhật hay 
Việt-Nam, đọc trinh thám chủ yếu từ những bản dịch của tiểu-thuyết phương Tây. 
Thể loại này không được coi là nghệ thuật và không được khuyến khích. Thể loại 
tiểu thuyết hình án xuất hiện hơi trễ ở Nhật. Có thể nói sau Đường Âm Tỉ Sự, tác 
phẩm Trung Quốc thế kỷ 13, đến những năm 1950 mới thực sự có hiện tượng nhập 
cảng loại tiểu thuyết đen được xem như một loại văn học đại chúng mà tiểu thuyết 
trinh thám và khoa học giả tưởng là bộ phận chính, dù trước đó đã có những phóng 
tác truyện của Edgar Allan Poe, Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc, Gaston 
Leroux, Agatha Christie, v.v. Khác với người Hoa và Việt, thể trinh-thám được 
tác-giả người Nhật thử nghiệm và được độc giả đón nhận. Thám tử lừng danh Conan, 
còn được biết đến dưới tên tiếng Nhật Meitantei Konan là một bộ truyện tranh 
trinh thám của tác giả Gosho Aoyama, từng được đăng trên tuần báo Shonen Sunday 
từ năm 1994. Nhà xuất bản VIZ Media đã phát hành bộ truyện tranh Thám tử lừng 
danh Conan tại Mỹ dưới cái tên tiếng Anh là Case Closed (Vụ án đã được khép 
lại). Nhân vật chính trong truyện được gọi theo tên tiếng Anh, trong khi các 
nhân vật phụ vẫn được gọi tên theo tên gốc bằng tiếng Nhật. Thám tử lừng danh 
Conan được viết theo thể văn trinh thám cổ điển, với cách bố trí cổ điển của 
những vụ sát nhân trong nhà, và những vụ án có vô số kẻ tình nghi. Bao trùm lên 
các vụ án cũng là cách lập luận phá án hết sức điển hình của văn trinh thám cổ 
điển. Ngoài ra, tác-giả Akagawa Jiro (1948-) đã xuất bản cả 400 tựa liên tục 
khởi từ Ghost Train (1976) đến những Incident in the Bedroom Suburb, Voice from 
Heaven, Sailor Fuku to Kikanju, v.v.
Phía Trung Hoa chậm hơn. Cảnh sát, 
công an là những lãnh vực cấm kỵ ít ai muốn đụng đến. Năm 2007 có hai tiểu 
thuyết Trung Hoa được xuất bản, một cuốn sách dí dỏm và gay cấn của Nury 
Vittachi mang tên Công đoàn những thần bí công nghiệp thành phố Thượng Hải (The 
Shanghai Union of Industrial Mystics) và cuốn tiểu thuyết trinh thám của Cầu 
Tiểu Long (Qiu Xiaolong) về quan thanh tra họ Trần mang tên Khi Đỏ Là Đen (When 
Red Is Black). Những tiểu thuyết này sử dụng lối kể chuyện của phương Tây, xa 
những hình án bí hiểm thời nhà Đường!
Cho đến đầu thế kỷ 20, văn học 
Việt-Nam vẫn chưa có những thể loại tiểu thuyết giàu trí tưởng tượng như võ hiệp 
và giàu óc phán-đoán như công án của văn học Trung Quốc. Riêng về tiểu thuyết 
trinh thám tới giữa những năm 1920, trong Nam có Nguyễn Chánh Sắt nhưng nói tới 
tiểu thuyết kiếm hiệp phải nói tới Phú Đức với Gái Trả Thù Cha (1920-) bộ tiểu 
thuyết trinh thám gồm 4 tập mỗi tập khoảng 220 trang. Ông lợi dụng phong trào võ 
tạ và quyền Anh có sự thách thức giữa võ sĩ Tạ Ánh Xém và Amadou vào khoảng năm 
1924. Tiểu thuyết kiếm hiệp có pha lẫn loại trinh thám, một thể loại mới lạ và 
có phần gần gủi với truyện Tàu. Thế Lữ xuất bản Tiếng hú hồn mụ Ké, và một vài 
truyện mang yếu tố trinh thám khác (Lê Phong Phóng Viên, ...). Nhưng Phạm Cao 
Củng mới là tác-giả chuyên nghiệp của những tiểu thuyết trinh thám theo phương 
Tây. Ông khai thác hai thể loại: trinh thám suy luận và trinh thám mạo hiểm. 
Loại đầu có Vết tay trên trần (1936), Chiếc tất nhuộm bùn (1938), Cái kho tàng 
nhà họ Đặng, Ba viên ngọc bích (1938), Người một mắt (1940), Kỳ Phát giết người 
(1941), Nhà sư thọt (1941), Đôi hoa tai của bà Chúa (1942), Đám cưới Kỳ Phát 
(1942)... với nhân vật thám tử Kỳ Phát. Loại sau có Bàn tay sáu ngón, Hai người 
lên máy chém (1950, Người chó sói (1950), Chiếc gối đẫm máu (1951)... mà nhân 
vật trung tâm là Tám Huỳnh Kỳ. Loạt truyện về thám tử Kỳ Phát chịu ảnh hưởng 
nhiều của Conan Doyle, mang nhiều dáng dấp Sherlock Holmes. Còn Tám Huỳnh Kỳ là 
sự pha trộn của Arsène Lupin (nhân vật của Maurice Leblanc). Tuy vay mượn thể 
loại nhưng ông đã Việt hóa rất tài tình, cả sáng tạo. Nhân vật thám tử Kỳ Phát 
đã được ông gán cho những phẩm chất vốn được ưa chuộng ở phương Đông như coi 
khinh quyền thế, tiền tài, cảm thông với người dân thấp hèn, không quản ngại 
nguy hiểm cốt lẽ phải được sáng tỏ. Kỳ Phát tôn trọng pháp luật cũng như tôn quý 
tình cảm và đạo đức mang dáng dấp của hiệp sĩ hảo hán của tiểu thuyết cổ Trung 
Hoa.
Các nhà văn và độc giả Việt-Nam vẫn 
xem truyện trinh thám là văn học hạng hai, không phải là văn-chương chính-thống. 
Một phần vì truyện trinh thám Việt-Nam cấu trúc đơn giản, thiếu kỹ thuật 
trinh-thám và tưởng tượng. Các tác-giả lại không có kinh nghiệm và kiến thức. 
Gần đây ở ngoài nước xuất hiện T. Mất Tích mang hình thức của một tiểu thuyết 
trinh thám, cảnh sát hình sự nhập xuất, nhưng thật ra là một thử nghiệm về hình 
thức sáng tác; tác-giả Thuận không đưa người đọc đi tìm dấu vết của T, mà như là 
trình bày diễn trình hội nhập đời sống Pháp của nhân-vật T. Trong nước nay đầy 
dẫy sách dịch, từ những Edgar Allan Poe, Sir Arthur Conan Doyle, Agatha 
Christie, Bram Stoker, James Hadley Chase, v.v. Về phần sáng tác đã có những 
tiểu thuyết hình-án, trinh thám như truyện Vũ ĐiệuTử Thần (2007) của Trần Thanh 
Hà, trinh thám, kinh dị như các tập truyện Điệu Valse Địa Ngục (2007, truyện 
Vong hồn trên những cánh đồng chết), Tầng thứ nhất (2007), Trang Trại, ... của 
DiLi, ... tiểu-thuyết Vũ ĐiệuTử Thần ‘biên tập’ lại từ kịch bản phim cùng tên 
của đạo diễn Bùi Tuấn Dũng và tác-giả Trần Thanh Hà là người từng biên tập nhiều 
truyện trinh thám ngoại quốc và Việt-Nam. Cuộc tìm thủ phạm đã giết cô gái nhảy 
bốc lửa được thuê cho những cuộc ăn chơi, qua những cái Chết bí ẩn liên quan đến 
loại ma túy tổng hợp có tên Freelay và những cuộc trình diễn ma túy điên trong 
thành phố... Đoàn Minh Phượng với Và Khi Tro Bụi (2007), mang hình thức trinh 
thám nhưng đặc biệt viết về cái Chết và nỗi hoang mang về tương lai cô đơn! Tiếc 
rằng loại này chối từ tác-phẩm như là sáng tạo văn-chương hoặc họ quan niệm sáng 
tác vì thương mại! Khuynh hướng lây sang những nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp muốn 
bình dân hóa văn-học, với dòng 'tiểu thuyết ba xu' (Tiểu Long Nữ, Gạ Tình Lấy 
Điểm 2007) mỏng ở độ dày và kỹ thuật văn-chương! Pierre Jourdi gọi đây là 
‘văn-chương rỗng ruột’ (20) đang diễn ra ở Việt Nam như đã xảy ra ở Âu Mỹ trước 
đây. Rỗng ruột vì thử nghiệm hình thức, kỹ thuật, pha trộn các thể loại, viết 
vội vàng, thiếu phong cách, v.v. Khoác vẻ tiểu thuyết để xuất bản cho nổi danh 
hoặc với mục đích thương mại. Thay vì viết những 'tác-phẩm' không nội-dung, rỗng 
ruột, không 'sứ điệp', không biết viết cho ai, 'không đầu không đuôi' hay không 
kỹ thuật, không văn-chương, không ... và không ..., tại sao ta không thử nghiệm 
thể loại tiểu-thuyết đen và trinh thám? Mặt khác, sau nhiều thế kỷ văn minh vật 
chất đã đạt tột đỉnh, thì thế kỷ XXI có thể là thời của tâm linh; tại sao không 
đi sâu vào đề tài cái Chết? Văn-chương cổ điển, lãng mạn, chính trị, ... đã qua; 
thời tiểu-thuyết đen nên đến, với tác-giả 
Việt!
Nhà văn Việt-Nam coi thường truyện 
trinh thám. Không thể tổng quát hóa về bản chất người Việt triết lý, mơ mộng, vì 
người Việt bác học cũng nhiều, nhưng theo thiển ý hiện văn-chương đang bế tắc, 
sau những 'tác-phẩm' nội dung tự truyện hình thức thử nghiệm. Xã hội Việt-Nam 
trong cũng như ngoài nước cũng đầy dẫy đề tài cho tiểu-thuyết trinh-thám. Nếu 
không là những dây dưa tình báo, mạng nhiện kinh tài thì những hoạt cảnh của đời 
sống mới ở trong và ngoài nước cũng đa dạng và dồi dào. Xã hội kim tiền nhưng 
đầy bất công và hỗn loạn, tâm lý con người bị động, bất thường, không hội nhập 
được, hành hung, án mạng có thể diễn ra bất cứ ở đâu và lúc nào. Cái Chết dễ có 
lý do, mà sát nhân có khi chỉ là nạn nhân và cũng có thể sẽ là cái Chết tiếp 
theo. Nhân chứng hả? Họ thường có hai khuôn mặt và cũng có thể là thủ phạm chính 
hay đồng lõa. Công lý và ánh sáng có thể tìm thấy ở cuối truyện nhưng nhân cách, 
con người thật của nhân-vật, thủ phạm hay đồng lõa, cũng cần đào sâu tâm lý, 
nhân sinh quan. Có những tác dụng tinh thần lớn: tiểu thuyết trinh thám giúp họ 
biết sử dụng lý trí để tách bạch mọi yếu tố và nhờ đó phán đoán một cách sáng 
suốt trong cách xử thế, chớ để cho tình cảm và đam mê mặc tình lôi cuốn. Tiểu 
thuyết trinh thám luôn là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn thể hiện trí tưởng 
tượng, khả năng tư duy logic và nghệ thuật của trò chơi kịch 
tính.
Về cái Chết thì nếu rời khỏi đường 
mòn tôn giáo và triết lý, cái Chết có vị trí chính đáng trong văn-chương 
nghệ-thuật. Cái Chết trong văn bản hôm nay được bao gồm để loại bỏ, và bị loại 
bỏ để được bao gồm, một đường bước đi nhưng không phải là bước chót, đường cùng. 
Đưa cái Chết vào văn-chương bằng cách phân tích, phản ứng, ... là một cách thấu 
hiểu cách dựng xây xã hội của cái Chết và hiện thực hóa qua cái xác. Hiện tượng 
tiểu-thuyết đen xác nhận nhu cầu tái phát hiện cái Chết là một đòi hỏi xã hội và 
từ đó có thể nói, hiện tượng phản ảnh vấn nạn thời đại khá lớn mà mọi người 
không thể tránh. Và nhà văn cũng không thể tránh đề tài cái Chết ! Cái Chết hiện 
thực qua những cái xác thân khuyết tật, bệnh hoạn, khủng hoảng, bị nguy khốn, bị 
bạo hành, nạn nhân của chiến-tranh rồi chế độ toàn trị, 
v.v.
Thể loại tiểu-thuyết đen, 
trinh-thám hiện đại và hậu hiện đại, và đề tài cái Chết vừa là cách tân nội dung 
vừa cách tân hình thức, kỹ thuật. Và vừa thoả mãn người trí thức vừa đến với độc 
giả đại-chúng. Lãng mạn, hiện thực cổ điển, hiện thực quốc tế, hiện đại phản 
tiểu-thuyết (tiểu-thuyết mới) rồi cũng qua đi, nếu còn thì cũng sống dở chết dở; 
văn-chương hôm nay trở lại với con người, một chủ nghĩa nhân bản mới trong đó 
môi sinh, lịch sử và văn-hóa địa phương, đặc thù được chú trọng, đề cao, trong 
đó tương tác, cộng sinh là những điều khả dĩ.
*
Tiểu-thuyết cổ điển Tây phương từ 
1860 với những thẩm mỹ học mới, đã mất đi phần nào tính kể chuyện và hành động. 
Càng văn-chương thì như càng phản-truyện, phản-tiểu-thuyết. Bên cạnh đó, 
tiểu-thuyết đen từ khi xuất hiện đến nay, ngày càng phát triển - với những cập 
nhật theo thời đại. Trước hết là tính đại chúng, nhờ yếu tố mục đích của 
tiểu-thuyết, tất cả đều đưa đến một cái đích là giải đáp, là trả lời cho vấn 
nạn, án mạng, ... Câu chuyện và nhân-vật thám tử như nhập vào trong người đọc; 
người đọc thắc mắc, hồi hộp, lý luận như tác-giả lý luận, cả hành động như 
nhân-vật kể cả đối đầu với cái Chết. Khi thủ phạm được tìm ra, giải án, người 
đọc cũng thỏa mãn như nhân-vật trong truyện. Trong tiểu-thuyết đen, bài học đạo 
đức không là chính, có thể đạo đức cũng chỉ là một phương tiện hoặc khía cạnh 
của câu chuyện. Và tội ác hấp dẫn con người hơn là luân lý! Ngôn-ngữ của 
tiểu-thuyết đen gần với đa số người đọc, nghĩa là không cứ phải văn-chương, kỹ 
thuật bút pháp cao.
Tiểu-thuyết đen sẽ là tiểu-thuyết 
của tương lai, của thế kỷ XXI? Đối nghịch với loại văn-chương rỗng tuếch, không 
ruột có tính ăn bám và tự kỷ, tiểu-thuyết đen có thể là lối thoát cho một 
văn-chương mang tính tôn giáo hoặc chính trị.
Trong khi tiểu-thuyết cảnh-hình 
truyền thống Anh quốc cứ khởi từ tiền đề bản tính con người là xấu (khác con 
người bản thiện của Mạnh Tử), tiểu-thuyết trinh-thám bị xem là đề cao bạo lực 
lại nhìn xã hội bị cái Ác bao trùm, từ đó đi đến vượt qua cái ác, cái bất thăng 
bằng, trở thành một thứ văn-chương của khủng hoảng - đó là lý do loại 
tiểu-thuyết này đang khởi sắc trở lại. Khởi sắc nhưng không có nghĩa là được nhà 
phê bình văn-chương đề cao đúng mức. Tiểu-thuyết đen thật vậy như một ý thức về 
cái bạo lực từ tương quan xã hội bao trùm đời sống các cá nhân và thường trực 
đặt lại định nghĩa về cái Ác và cái Thiện; thể loại tiểu-thuyết này sản sinh ra 
ý nghĩa mới. Các tác-giả gần đây như trở thành những phóng viên báo chí có mặt 
tại chỗ, ghi lại những dữ kiện, nêu vấn đề và tìm cách giải đáp. Pascal Dessaint 
(Loin des humains, Mourir n'est peut-être pas la pire des choses) phanh phui 
những thảm họa môi trường sống do những kẻ khủng bố môi sinh, những tên khủng bố 
thời mới. Manuel Vàzquez Montàlban (1939-2003) với thám tử Pepe Carvalho, tài 
tình và hiện thực dữ dội diễn tả đời sống Tây-ban-nha hậu chế độ Franco mà ông 
từng bị từ. Sống là cuộc kiếm tìm thường trực và thường con người ta, từ hiền 
triết đến người thường, không tìm thấy. Kết quả tìm thấy đa phần thất vọng hoặc 
tàn nhẫn. Đó cũng là lý do khiến thám tử ra tay tìm tiếp. Tìm hoài, tìm mãi vì 
không còn giải pháp nào khác, dù con đường đi tìm không dễ đưa đến kết quả, 
không luân lý, lương tâm, không chắc chắn hết. Trong tiểu-thuyết đen, có hai 
loại cái Chết : cái Chết thật của nạn nhân và cái Chết của thủ-phạm, cái Chết 
sau thường là tượng trưng.
Tiểu-thuyết đen cuối cùng cũng được 
nhìn nhận như một thực-thể và là thể loại văn-chương, và đã có những thành công 
phong cách mỹ học và tham dự vào diễn văn xã hội. Cản chúng là làm thui chột khả 
năng làm văn-chương. Chúng tham dự trò chơi văn-chương trọn vẹn. Thí dụ như 
những nhóm hình thức Ludique và Oulipiens (loạt série Le Poulpe với Jean-Bernard 
Pouy). OuLiPo (tên tắt của 'ouvroir de littérature potentielle', xưởng 
văn-chương tiềm lực) chủ trì văn-chương gò bó nhưng hỗn tạp, cổ võ những qui tắc 
và công thức phức tạp cho văn-chương. Trường phái này cũng áp dụng vào 
tiểu-thuyết trinh-thám như Qui a tué le Duc de Densmore? (Bibliothèque 
Oulipienne no 67, 1994, Réédition Castor Astral, 2000) của Claude Berge trong đó 
người đọc chỉ có thể khám phá thủ phạm bằng một địa-lý hình-học (théorème) phối 
hợp của nhà toán học Hung-gia-lợi G. Hajós. Trong Le châteaux des destins 
croisés, Italo Calvino cấu trúc tác-phẩm từ vị trí khác nhau của những lá bài 
tarot. V.v.
Thế giới hôm nay đang ở trong một 
giai đoạn đầy cảm giác mạnh, một thời điểm mang lại một thách thức mới hết sức 
hấp dẫn đối với những cây viết bén nhậy và có nhu cầu cập nhật. Với vô số hình 
thức diễn đạt mới, văn học đại chúng đã có chỗ đúng bên cạnh văn-chương quý phái 
và đã tạo nên những tầng văn hóa, nếu được phát triển trong một chiều hướng lành 
mạnh nghĩa là hợp với nhân tính, văn-chương sẽ giúp cho con người có cuộc sống 
phong phú, đầy sáng tạo.
Chú-thích 
:
1- "... L'ordre du monde est réglé 
par la mort". (La Peste. Paris : Gallimard, 1971, Tr. 
147).
2- Mort à Crédit . Paris: 
Gallimard/Futuropolis, 1991, p. 16.
3- La Force de l'Âge. Gallimard, 
1960, Tr. 617.
4- "Elle a eu une mort très douce; 
une mort de privilégié" (Une mort très douce. Gallimard, 1965, tr. 147. Bản dịch 
của Vũ Đình Lưu có tựa là Một Cái Chết Dịu Dàng, Văn (Sài-Gòn) 
17/1966).
5- "On meurt de quelque chose", 
Sđd, tr. 164
6- Robert Detweiler. "The moment of 
death in modern fiction". Contemporary Literature 13, 3, Summer 1972, p. 
269-294.
7- Bản Gallimard 1980, tr. 
16.
8- Nathalie Sarraulte. L'ère du 
soupçon in Oeuvres complètes. Gallimard 1996, tr. 
1577.
9- De la mort sans exagérer; 
Recueil anthologique, poésie; traduit du polonais par Piotr Kaminski. Fayard, 
1996; tr. 93-94).
10- Gaston Bachelard. L'eau et les 
rêves : essai sur l'imagination de la matière, 1942; Paris : J. Corti, 1968. Tr. 
64, 77.
11- Frederick J. Hoffman. The 
Mortal No: Death and the Modern Imagination. Princeton NJ: Princeton University 
Press, 1964. 507 tr.
12- Du Tử Lê. "Khi Tôi Chết Hãy Đem 
Tôi Ra Biển". Thơ Tình (s.l.: Nhân Chứng, tái bản 1984), tr. 
94-96.
13- Thêm, Một Đóa Hồ Nghi. Los 
Angeles : Sông Thu, 2004.
14- Mai Thảo. "Hỏi Mình Giữa Biển". 
Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền. Westminster CA: Văn Khoa, 1989, tr. 94, 
96.
15- Leslie A. Fiedler. Love and 
Death in the American Novel.Champaign, IL: Dalkey Archive Press, 2003. Tr. 
430+.
16- Hoàng Hải Thủy đã phóng tác ra 
Việt ngữ, tựa Gã Thâm, 196?, sau Gã Thâm trở thành một bút hiệu khác của 
HHT.
17- Gérard Genette. Fiction et 
diction. Paris : Du Seuil, 1991, p. 31.
18- Hợp Lưu, số 68 (12-2002), tr. 
226-261.
19- "Lịch sử trong tiểu thuyết - 
một tùy tiện ý thức", Hợp Lưu, số 72, 8&9/2003, tr. 
45.
20- Pierre Jourde. La Littérature 
sans estomac. Paris : Pocket, Esprit des Péninsules, 2004. Tr. 
185-190.
Nguyễn Vy 
Khanh
Phần 
nhận xét hiển thị trên trang
 






 
 
 
 
 
 
 
0 nhận xét:
Đăng nhận xét